Lời người dịch: Nhân dịp Annie Ernaux được trao Nobel Văn Chương 2022 làm nức lòng người hâm mộ khắp nơi, thân là một người hâm mộ bé nhỏ của bà, tôi đã dịch nhanh một bài phỏng vấn của Annie Ernaux cho tờ The New York Times vào đợt Pháp bị phong tỏa do Covid-19 năm 2020. Một phỏng vấn giúp ta nhìn tổng quan về Ernaux và văn chương của bà.
Mời đọc bản gốc tại ĐÂY.
Từ thập niên 1970, Annie Ernaux đã dốc ký ức cả đời mình vào những tác phẩm mang đậm tính cá nhân. Giờ đây, độc giả nói tiếng Anh đang dần tiếp cận.
Vào một buổi chiều gần đây, qua điện thoại, từ ngôi nhà ở ngoại ô của mình, nhà văn Pháp Annie Ernaux đã mô tả phòng khách của bà. “Tôi đang ngồi trên chiếc ghế bành cũ kỹ. Từ khung cửa sổ hướng ra phía Nam, tôi có thể nhìn thấy bầu trời, một vài đám mây, và một cái cây ở bên trái,” bà nói, lựa chọn những chi tiết với sự dễ dàng từ một bậc thầy ký ức. “Đó là một nơi rất yên tĩnh. Thậm chí còn yên tĩnh hơn vào lúc này.”
Nước Pháp mới bước vào một đợt phong tỏa nghiêm ngặt do virus corona, và Annie Ernaux, 79 tuổi, không thể gặp mặt trực tiếp cho cuộc phỏng vấn. Nhưng thật dễ dàng mường tượng ra bà và ngôi nhà của bà trông như thế này từ những tác phẩm đậm tính cá nhân của bà: Bà đã dốc cả cuộc đời mình vào chúng.
Từ thập niên 1970, Annie Ernaux đã chiếm một vị trí đặc biệt trong ngôi đền văn chương Pháp vì khả năng không chỉ khơi gợi những ký ức cá nhân, mà còn thể hiện cách thức đầy tinh tế mà chúng tương tác với trải nghiệm đại chúng.
Cuốn sách đầu tiên của bà, “Quét Sạch” (Cleaned Out), ra đời năm 1974, là tường thuật mạnh mẽ của bà về tuổi thơ thuộc tầng lớp lao động ở Normandy, và cuộc phá thai chui mà bà đã trải qua. Tác phẩm được xuất bản một thời gian ngắn trước khi thủ thuật này được hợp pháp hóa tại Pháp. Trong khi những tác phẩm của bà ở thời kỳ đầu tương đối tiểu thuyết hóa, bà tập trung vào thể loại hồi ký từ thập niên 1980, viết về cuộc hôn nhân bất hạnh, sự suy sụp của người mẹ vì bệnh Alzheimer, trải nghiệm của chính bà với căn bệnh ung thư, cũng nhưu những cuộc tình đầy đam mê ở tuổi trung niên.
Dù cho Ernaux được tán dương từ lâu tại Pháp, bà vẫn ít được biết đến tại các nước nói tiếng Anh cho đến năm ngoái, khi một trong những cuốn tự họa gần nhất của bà được xuất bản, “Những Năm” (The Years), và được liệt vào chung khảo Giải thưởng Booker Quốc Tế. Giờ đây, độc giả Anh ngữ đang khám phá những tác phẩm trước của bà, và cuốn sách gần đây nhất, “Hồi Ức Một Cô Gái” (A Girl’s Story) sẽ được xuất bản tại Mỹ tuần này.
“Hồi Ức Một Cô Gái” là mảnh ghép còn thiếu trong bộ xếp hình tiểu sử Annie Ernaux. Ở đó, bà tìm đường trở lại mùa hè năm 1958 và trải nghiệm tình dục đầu đời của mình – một sự kiện để lại sang chấn, đã bị bỏ ngỏ ở những cuốn sách trước, khiến bà rơi vào trầm cảm và gây ra chứng rối loạn ăn uống.
Ernaux nói rằng phải mất gần sáu thập kỷ để bà bước ra khỏi sự kiện đó “bởi vì nó thật phức tạp. Nếu đó là một vụ cưỡng hiếp, có lẽ tôi đã có thể nói về nó trước đây, nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ về nó như thế.” Thay vào đó, tác phẩm của bà nương vào vùng xám về đồng thuận tình dục, ở thời mà khái niệm đó còn chưa được dạy hay thảo luận.
“Người đàn ông đó lớn tuổi hơn – điều đó quan trọng với tôi – và tôi thỏa hiệp, vậy nên có thể nói rằng, vì thiếu hiểu biết,” Ernaux bày tỏ. “Tôi thậm chí còn chẳng nhớ mình đã nói ‘Không’”.
Sau những sự kiện mùa hè năm đó, Ernaux mất thêm một thập kỷ rưỡi để tìm thấy tiếng nói của mình. Những ảnh hưởng đầu tiên của bà, từ Simone de Beauvoirs đến biến động xã hội vào tháng 5/1968, đã được thu vào những hình ảnh đầy sống động trong “Những Năm”, thứ đã dệt nên gần 70 năm tự truyện và lịch sử.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay của bà, viết thời đại học, bị nhiều nhà xuất bản từ chối vì “quá tham vọng”, bà kể. Khi bà bắt đầu viết trở lại vào thập niên 1970, bà đang là một giáo viên tiếng Pháp và một người mẹ của hai đứa con, mới làm quen với nhà xã hội Pierre Bourdieu và lý thuyết tái sản xuất xã hội của ông.
Sự nhấn mạnh của Bourdieu vào cách thức hệ thống giáo dục loại trừ trẻ em ở tầng lớp lao động đã mang đến cho Ernaux một nhận thức: Bỗng nhiên, nỗi xấu hổ mà bà từng cảm thấy khi là một sinh viên nhận học bổng, với hoàn cảnh khác xa với các bạn đồng trang lứa trở nên hợp lý.
Bà viết “Quét Sạch” mà không kể với ai. “Chồng tôi đã trêu chọc tôi sau bản thảo đầu tiên. Tôi giả vờ đang làm luận văn Tiến sỹ vào những lúc một mình,” bà kể lại. Khi cuốn sách được chọn bởi một nhà xuất bản danh tiếng, Gallimard, chồng bà Philippe đã buồn phiền, Ernaux kể: “Anh ấy nói với tôi: Nếu em có thể viết một cuốn sách bí mật, vậy thì em cũng có thể lừa dối anh.” Trong cuốn sách thứ ba, “Người Phụ Nữ Băng Giá” (A Frozen Woman), cuốn sách khám phá những cảm xúc mâu thuẫn của nhà văn trong vai trò một người vợ và người mẹ, chuyện ly hôn xuất hiện.
Ernaux nói lựa chọn không tái hôn đã mang đến tự do cho bà. “Tôi sống với đàn ông một thời gian, nhưng nhanh chóng, tôi sẽ cảm thấy mệt mỏi. Tôi hình dung nó như việc bị phong tỏa với ai đó vào lúc này – một cơn ác mộng”, bà nói và cười.
Vào đầu thập niên 1990, bà gây choáng váng nhiều người ở Pháp với “Đam Mê Giản Đơn” (A Simple Passion), tường thuật về cuộc tình của bà với một nhà ngoại giao nước ngoài đã có gia đình, để khám phá khát khao trong sự giải phóng, chi tiết gợi cảm bất tuân đạo đức. Nhờ đó, Ernaux dừng bất cứ sự giả tạo giả tưởng nào, và cuốn sách bán được 200,000 bản trong vòng hai tháng, đã nhận thấy những lời chỉ trích nanh nọc từ những người thủ cựu trong xã hội.
Bất chấp điều đó, nhiều độc giả thấy bản thân mình trong “Đam Mê Giản Đơn”, và Ernaux ngập lụt trong thư từ, bà kể lại. “Đàn ông và đàn bà giãi bày với tôi, nói rằng họ ước gì họ viết cuốn sách đó,” bà thêm vào. (Một bộ phim được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết, đạo diễn bởi Danielle Arbid, sẽ phát hành tại Pháp vào cuối năm nay.)
Nhà xã hội học, tiểu thuyết gia Chirstine Détrez, giáo sư tại Đại học Sư phạm Lyon, nói trong một cuộc phỏng vấn điện thoại rằng tác phẩm của Ernaux “loại bỏ đặc tả” các trải nghiệm của phụ nữ. “Bạn sợ công nhận bản thân, bởi vì sau đó bạn sẽ phải vẽ ra đoạn kết cho chính mình, nhưng bạn vẫn làm”, cô nói, bổ sung thêm rằng ảnh hưởng của Ernaux lên cuộc sống của phụ nữ pháp có thể sánh bằng ảnh hưởng của Beauvoir đến các thế hệ trước. Giáo sư Détrez cũng nói thêm, “Nó có ích, bởi vì như vậy có nghĩa là những gì bạn trải nghiệm là kết quả của một điều kiện chung.”
Điều này rất rõ ràng từ phản ứng của khán giả trong suốt buổi đọc cộng đồng cuốn “Hồi Ức Một Cô Gái” tạp rạp Comédie-Française tôn nghiêm ở Paris hồi đầu tháng Ba. Khi nữ diễn viên Dominique Blance cất tiếng, những tiếng rì rầm tán dương và tiếng cười khúc khích chào đón từng chi tiết đã tái hiện một thời kỳ đã mất từ rất lâu trước: sự đột phá của băng vệ sinh dùng một lần, một loại bánh quy nổi tiếng thời đó. Với những phụ nữ thuộc thế hệ Ernaux, họ là những miếng bánh madeliene của Proust.
Hôm đó Ernaux đã ngồi ở vị trí khán giả, nhưng bà thường thích tránh xa khỏi văn đàn Paris. Thay vào đó, bà ngày càng trở nên bộc trực trong các buổi phỏng vấn hay các tiểu luận về các vấn đề xã hội và chính trị. Bà thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ với phong trào #MeToo, còn khó khăn để đạt được sự chú ý trong giới văn nghệ Pháp, cũng như phòng trào Áo Vàng đã làm rung chuyển cả đất nước vào năm ngoái. “Tôi đến từ nhóm người có thể được xếp vào những người Áo Vàng”, Ernaux nói.
Sự chú ý của bà đối với các cấu trúc thống trị xã hội đã dọn đường tại Pháp cho các nhà văn như Édouard Louis, 27 tuổi, người đã gây chú ý với “Kết Cục Của Eddy” (The End of Eddy) – tiểu thuyết lấy cảm hứng từ chính sự trưởng thành từ tầng lớp lao động của anh. “Với tôi, nó là một sự bùng nổ”, Louis nói trong lần trao đổi đầu tiên với Ernaux, qua một cuộc phỏng vấn trên điện thoại: “Tôi thấy mình được đại diện.” Anh cũng thêm vào rằng Ernaux đã khiến anh “nhận ra tự truyện có thể phá hủy đến mức nào.”
Dầu vậy, khi chính trị hay các sang chấn cá nhân xuất hiện trong cuộc điện với Ernaux, không hề có chút dấu hiệu nào của sự phẫn nộ trong giọng bà. Bà trực tính nhưng có thể đo lường một cách ấn tượng; ngay cả trong “Hồi Ức Một Cô Gái”, khi loại bỏ được tổn thương mà bà đã trải qua vào năm 1958 dẫn đến một cảm thức bình yên.
Dường như, nỗi sợ duy nhất của Ernaux là mất đi khả năng nhìn sâu vào bên trong và tái hiện quá khứ, sau khi thấy những ký ức của mẹ mình dần phai nhòa vào thập niên 1980. “Thẳng thắn mà nói, tôi thà chết bây giờ còn hơn mất đi mọi điều tôi đã từng thấy và nghe,” bà bày tỏ. “Với tôi, ký ức là vô tận.”